Lạc nội mạc tử cung là gì? Các công bố khoa học về Lạc nội mạc tử cung

Lạc nội mạc tử cung, còn được gọi là endometriosis, là một bệnh lý trong đó mô tử cung phát triển bên ngoài tử cung, thường là trên lớp mô mỏng bên trong tử cun...

Lạc nội mạc tử cung, còn được gọi là endometriosis, là một bệnh lý trong đó mô tử cung phát triển bên ngoài tử cung, thường là trên lớp mô mỏng bên trong tử cung được gọi là niêm mạc tử cung (endometrium). Khi mô này phát triển ra các vùng khác trên cơ thể ngoài tử cung như buồng trứng, buồng trứng, các bộ phận tiểu khung chậu, thậm chí cả ruột non và phổi, nó có thể gây ra các triệu chứng màu sắc và làm tổn thương mô xung quanh. Lạc nội mạc tử cung thường gây ra đau âm ỉ trong kỳ kinh, quan hệ tình dục đau đớn, rối loạn kinh nguyệt, vô sinh và tỷ lệ thai ngoài tử cung cao. Bệnh này có thể được điều trị bằng thuốc, phẫu thuật hoặc kết hợp cả hai.
Endometriosis là một bệnh lý phức tạp và có thể gây ra nhiều triệu chứng khác nhau ở phụ nữ.

Mô thất lạc trong lạc nội mạc tử cung có thể phát triển trên các cơ quan trong cơ thể như:

1. Tự cung: Mô tử cung lạc nội mạc có thể thâm nhập vào sâu trong thành tử cung và gây ra các vết thương hoặc tổn thương ngoại vi. Điều này có thể gây ra đau âm ỉ trong kỳ kinh (dysmenorrhea), kinh nguyệt dài và nặng, khó chịu trước và sau kỳ kinh.

2. Buồng trứng: Mô lạc nội mạc tử cung có thể phát triển trên bề mặt buồng trứng hoặc gây ra các cục bướu (endometrioma) trong các buồng trứng. Điều này có thể làm giảm chức năng buồng trứng và gây ra vô sinh.

3. Phiến tử cung và tử cung: Lạc nội mạc tử cung có thể phát triển trên lớp màng ngoài của tử cung hoặc trên các phiến tử cung. Điều này có thể gây ra tổn thương và sẹo bám lại, làm mất tính linh hoạt của tử cung và gây ra vô sinh hoặc các vấn đề trong quá trình mang thai.

4. Ruột non và dạ dày: Lạc nội mạc tử cung cũng có thể phát triển trên ruột non và dạ dày, gây ra đau bụng, rối loạn tiêu hóa và tiêu chảy.

5. Phổi và các cơ quan khác: Rất hiếm khi, mô lạc nội mạc tử cung cũng có thể phát triển trên phổi, tim, gan, và các cơ quan khác trong cơ thể.

Để chẩn đoán lạc nội mạc tử cung, các phương pháp như siêu âm, hình ảnh chụp cộng hưởng từ (MRI), hoặc thăm dò bằng mổ (laparoscopy) có thể được sử dụng. Điều trị lạc nội mạc tử cung có thể bao gồm thuốc giảm đau, hormon để kiềm chế sự phát triển mô và phẫu thuật để loại bỏ mô thật lạc. Thậm chí sau khi điều trị, có thể xảy ra tái phát và theo dõi định kỳ cũng là cần thiết.

Danh sách công bố khoa học về chủ đề "lạc nội mạc tử cung":

Pseudoaneurysm tử cung trong bối cảnh lạc nội mạc tử cung xâm lấn sâu trong thai kỳ - báo cáo ca bệnh Dịch bởi AI
Springer Science and Business Media LLC - - 2021
Tóm tắt Đặt vấn đề

Giả phình động mạch tử cung (UPA) là một nguyên nhân hiếm gặp gây chảy máu có thể đe dọa tính mạng trong thời kỳ mang thai và sau sinh. Đây là một tình trạng không phổ biến, chủ yếu xảy ra sau chấn thương mạch máu do can thiệp phẫu thuật vùng chậu, nhưng cũng đã được báo cáo liên quan đến lạc nội mạc tử cung. Có nguy cơ cao hơn về việc phát triển UPA trong thai kỳ. Chẩn đoán bao gồm các triệu chứng lâm sàng, với đau bụng dữ dội và được xác nhận bằng siêu âm hoặc chụp cộng hưởng từ (MRI). Do nguy cơ vỡ của nó, gây sốc mất máu cho người mẹ và tỷ lệ tử vong cao cho thai nhi, việc điều trị liên chuyên khoa nên được xem xét một cách khẩn trương.

Trình bày ca bệnh

Chúng tôi trình bày ca bệnh của một bệnh nhân mang thai 34 tuổi có triệu chứng, nơi một UPA lớn được phát hiện lúc 26 tuần, dựa trên lạc nội mạc tử cung xâm lấn sâu (DIE). UPA đã được điều trị thành công bằng phương pháp thuyên tắc động mạch chọn lọc. Sau khi thuyên tắc, cơn đau giảm bớt nhưng người phụ nữ vẫn cần thuốc giảm đau qua tĩnh mạch trong thời gian theo dõi. Tại tuần thai thứ 37, cô phát triển nhiễm trùng huyết từ catheter tĩnh mạch dẫn đến phải thực hiện mổ lấy thai và sinh ra một bé trai khỏe mạnh. Cô được xuất viện 10 ngày sau sinh.

Kết luận

UPA nên được xem xét ở những phụ nữ mang thai có đau bụng và vùng chậu dữ dội, khi đã loại trừ các yếu tố sản khoa khác. DIE có thể là chẩn đoán tiềm ẩn. Đây là một tình trạng hiếm nhưng có thể đe dọa tính mạng cho cả mẹ và thai nhi.

Oleuropein làm giảm tiến triển của bệnh lạc nội mạc tử cung và cải thiện khả năng sinh sản của chuột cái mắc bệnh lạc nội mạc tử cung Dịch bởi AI
Journal of Biomedical Science - Tập 29 Số 1
Tóm tắt Thông tin nền

Bệnh lạc nội mạc tử cung là một bệnh lý sinh sản viêm phụ thuộc estrogen. Do đó, việc làm giảm estrogen hệ thống và sử dụng thuốc chống viêm là phương pháp điều trị hiện tại cho bệnh lạc nội mạc tử cung. Tuy nhiên, các phương pháp điều trị hiện tại cho bệnh lạc nội mạc tử cung có hiệu quả thấp và gây ra các tác dụng phụ ở bệnh nhân. Do đó, nhu cầu về các phương pháp điều trị thay thế nhắm vào các yếu tố đặc hiệu của bệnh lạc nội mạc tử cung là rất cao. Trong bối cảnh này, ERβ được lựa chọn làm mục tiêu có thể điều trị cho lạc nội mạc tử cung nhờ vai trò quan trọng của nó trong sự tiến triển của bệnh. Vì vậy, việc nhắm chọn ERβ mà không ức chế hoạt động của ERα sẽ là một mô hình mới để điều trị bệnh lạc nội mạc tử cung nhằm khắc phục hiệu quả thấp và các tác dụng phụ của liệu pháp hormon điều trị bệnh này.

Phương pháp

Hệ thống xét nghiệm hoạt tính ERβ và ERα dựa trên tế bào đã được sử dụng để xác định sản phẩm hóa học ức chế chọn lọc ERβ từ một thư viện các sản phẩm tự nhiên. Mô hình chuột có bệnh lạc nội mạc tử cung được tạo ra bằng phẫu thuật được sử dụng để xác định xem một loại thuốc ức chế ERβ có làm giảm sự tiến triển của bệnh lạc nội mạc tử cung hay không. Chuột có bệnh lạc nội mạc tử cung được chia ngẫu nhiên và sau đó được điều trị bằng đường uống với dung dịch đối chứng hoặc 25 mg/kg oleuropein (mỗi ngày một lần trong 21 ngày), một loại thuốc ức chế ERβ. Thể tích của tổn thương lạc nội mạc hoặc hoạt tính luciferase của các tổn thương lạc nội mạc được kiểm tra để xác định sự phát triển của những tổn thương ngoài tử cung ở chuột có bệnh lạc nội mạc tử cung. Các chất chuyển hóa và mức độ của các enzyme chuyển hóa ở gan và thận được xác định trong huyết thanh của chuột cái được điều trị bằng dung dịch đối chứng và oleuropein (25 mg/kg, mỗi ngày một lần trong 21 ngày) để xác định độ độc hại của oleuropein. Bài kiểm tra quyết định gặp phải in vitro được thực hiện với các tế bào stroma nội mạc tử cung bình thường và tế bào stroma lạc nội mạc tử cung để xác định xem oleuropein có vượt qua sự quyết định ở những bệnh nhân mắc bệnh lạc nội mạc tử cung hay không. Tỷ lệ mang thai và số lượng con cưng của chuột cái C57BL/6 J mắc bệnh lạc nội mạc tử cung được điều trị bằng dung dịch đối chứng hoặc oleuropein (n = 10/group) được xác định sau khi kết hợp với chuột đực. Hồ sơ cytokine trong các tổn thương lạc nội mạc được điều trị bằng dung dịch đối chứng và oleuropein (25 mg/kg) được xác định bằng bộ công cụ Mouse Cytokine Array Kit.

Kết quả

Trong số các sản phẩm tự nhiên, oleuropein ức chế chọn lọc hoạt động ERβ nhưng không ức chế hoạt động ERα in vitro. Điều trị bằng oleuropein đã ức chế sự định vị hạt nhân của ERβ trong các tế bào nội mạc tử cung người khi tiếp xúc với estradiol. Điều trị bằng oleuropein (25 mg/kg) đã làm giảm sự phát triển của tổn thương ngoài tử cung ở chuột (gấp 6,6 lần) và (gấp 6 lần) so với dung dịch đối chứng, bằng cách ức chế sự sinh sản và kích hoạt apoptosis trong các tổn thương lạc nội mạc. Điều trị bằng oleuropein không gây độc cho khả năng sinh sản ở chuột cái. Thêm vào đó, chuột cái có bệnh lạc nội mạc tử cung được điều trị bằng oleuropein có tỷ lệ mang thai cao hơn (100%) so với chuột được điều trị bằng dung dịch đối chứng (70%). Hơn nữa, điều trị bằng oleuropein đã phục hồi một phần tác động của sự quyết định trong các tế bào stroma lạc nội mạc tử cung ở người bị lạc nội mạc tử cung so với dung dịch đối chứng. Chuột cái bị lạc nội mạc tử cung được điều trị bằng oleuropein cho thấy mức độ cytokine do ERβ điều hòa giảm đáng kể trong các tổn thương ngoài tử cung so với chuột được điều trị bằng dung dịch đối chứng, minh họa sự cải thiện tình trạng viêm quá mức ở chuột có bệnh lạc nội mạc tử cung.

Kết luận

Oleuropein là một sản phẩm nutraceutical hứa hẹn và mới mẻ cho liệu pháp không hormone đối với bệnh lạc nội mạc tử cung vì nó ức chế chọn lọc ERβ, nhưng không ức chế ERα, nhằm làm giảm tiến triển của bệnh lạc nội mạc tử cung và cải thiện khả năng sinh sản của chuột cái mắc bệnh lạc nội mạc tử cung.

Đánh giá hiệu quả điều trị lạc nội mạc tử cung bằng phẫu thuật nội soi
Tạp chí Phụ Sản - Tập 10 Số 3 - Trang 167-176 - 2012
Mục tiêu: Đánh giá kết quả điều trị LNMTC bằng phẫu thuật nội soi. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Mô tả cắt ngang gồm 150 bệnh nhân LNMTC được phẫu thuật nội soi tại Khoa Phụ sản BV Đà Nẵng. Kết quả: Có sự cải thiện rõ rệt về cường độ đau của các triệu chứng thống kinh (53 so với 33, p<0,001), đau vùng chậu không theo kỳ kinh (52 so với 26, p<0,001), giao hợp đau (78 so với 25, p<0,001), đại tiện đau (53 so với 18, p<0,001), điểm chất lượng cuộc sống (59,5 so với 80, p<0,001), và chỉ số hài lòng tình dục (3,0 so với 6,0, p<0,001) trước và sau điều trị. Tỉ lệ có thai tích lũy sau 12 tháng là 35,0% và đa số là bệnh nhân có thai trong khoảng thời gian 5 tháng đầu sau mổ. Tỉ lệ tái phát u LNMTC ở BT trên siêu âm là 5,3%. Kết luận: Có sự cải thiện rõ rệt về triệu chứng đau vùng chậu, chất lượng cuộc sống, và chỉ số hài lòng tình dục tổng thể sau điều trị với thời gian theo dõi 12 tháng. Tỉ lệ có thai tích luỹ sau 12 tháng ở các bệnh nhân hiếm muộn là 35,0% và đa số là bệnh nhân có thai trong khoảng thời gian 5 tháng đầu sau mổ. Tỉ lệ tái phát u LNMTC ở BT trên siêu âm là 5,3%.
Đánh giá các yếu tố ảnh hưởng đến sự thay đổi của Anti-Mullerian Hormone sau mổ nội soi bóc nang lạc nội mạc tử cung tại buồng trứng
Tạp chí Phụ Sản - Tập 15 Số 1 - Trang 63 - 68 - 2017
Mục tiêu: Xác định các yếu tố ảnh hưởng đến sự thay đổi AMH sau mổ nội soi bóc nang lạc nội mạc tử cung tại buồng trứng. Đối tượng: 100 bệnh nhân được mổ nội soi bóc nang LNMTC tại buồng trứng. Phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu theo dõi dọc. Kết quả: nồng độ AMH trung bình giảm 47,94% sau mổ, sự thay đổi này không phụ thuộc vào các yếu tố: số lần có thai, số con, tình trạng vô sinh hay nồng độ CA125, các yếu tố ảnh hưởng đến sự thay đổi AMH sau mổ là vị trí nang ở một bên hay hai bên buồng trứng, kích thước nang lạc nội mạc tử cung, điểm rASRM, giai đoạn LNMTC, nồng độ AMH trước mổ và tuổi. Kết luận: Nồng độ AMH giảm có ý nghĩa thống kê sau mổ nội soi bóc nang LNMTC tại buồng trứng phụ thuộc vào nhiều yếu tố trước và trong mổ.
#AMH #nội soi bóc nang LNMTC
Điều trị phẫu thuật u lạc nội mạc tử cung ở buồng trứng tại Bệnh viện Phụ sản Trung Ương
Tạp chí Phụ Sản - Tập 16 Số 1 - Trang 111 - 116 - 2018
Mục tiêu: Mô tả đặc điểm lâm sàng, cận lâm sàng của u LNMTC ở buồng trứng phẫu thuật tại Bệnh viện Phụ Sản Trung ương 11/2016 đến 8/2017. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Cỡ mẫu: 41 bệnh nhân. Tiêu chuẩn chọn: bệnh nhân chẩn đoán đại thể trong phẫu thuật là u LNMTC BT: trong khối u có dịch màu socola; thời gian: từ 11/2016 đến 8/2017; Phương pháp: mô tả tiến cứu. Kết quả: Bệnh nhân có con chiếm tỉ lệ 58,54%, có tiền sử phẫu thuật LNMTC ở buồng trứng là 9,76%; Đau bụng kinh chiếm tỉ lệ cao nhất là 58,54%; Có 58,50% có u ở bên phải, bên trái là 24,4%, u hai bên là 17,1; Trên siêu âm kích thước khối u ≤ 60 mm: 61%; CA-125 > 35 là 83,78%; Dính nặng với tỉ lệ 75,61%, dính trung bình là 19,51%, dính nhẹ 4,88%; Chủ yếu là phẫu thuật nội soi (92,68%). Bóc nang: 70,73%, cắt u: 29,27%; Giải phẫu bệnh lý không thấy tổn thương lạc nội mach tử cung 24,39%, tổn thương lạc nội mạc tử cung ở nơi khác 17,07%.
#U lạc nội mạc tử cung ở buồng trứng #bóc tách u #cắt buồng trứng.
Nghiên cứu đặc điểm lâm sàng, cận lâm sàng và kết quả điều trị u lạc nội mạc tử cung buồng trứng bằng phương pháp mổ nội soi
Tạp chí Phụ Sản - Tập 14 Số 4 - Trang 58-63 - 2017
Mục tiệu: (1) Nghiên cứu đặc điểm lâm sàng, cận lâm sàng u lạc nội mạc tử cung buồng trứng và (2) Đánh giá hiệu quả điều trị u lạc nội mạc tử cung buồng trứng bằng phương pháp mổ nội soi. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: phương pháp mô tả cắt ngang, gồm 52 bệnh nhân được phẫu thuật khối u lạc nội mạc tử cung buồng trứng tại khoa Phụ sản Bệnh viện Trung Ương Huế và khoa Sản Bệnh viện Trường Đại học Y Dược Huế từ tháng 6 năm 2015 đến tháng 3 năm 2016. Kết quả: Nhóm tuổi có tỷ lệ cao nhất là từ 20-29 tuổi chiếm tỷ lệ 53,8%, Tuổi trung bình của nhóm bệnh nhân nghiên cứu là 30,2 ± 7,1 tuổi. Triệu chứng lâm sàng: đau bụng kinh chiếm tỷ lệ 73%, đau bụng vùng chậu 51,9%, vô sinh chiếm 9,6%, khám thấy phần phụ có khối u chiếm 78,8%, dính túi cùng Douglas 15,6%. Siêu âm: u lạc nội mạc tử cung ở buồng trứng trái (40,4%) gặp nhiều hơn buồng trứng phải (30,8%). Nồng độ CA 125 trung bình là 79,8±66,7. Phẫu thuật bóc u + gỡ dính u lạc nội mac tử cung buồng trứng chiếm 57,7%. Thời gian phẫu thuật trung bình là 60,9±20,8 phút. Điểm đau trung bình sau mổ 24 giờ là 3,8 ± 1,6. Thời gian nằm viện sau mổ 4,5 ± 1,5 ngày. Kết luận: U lạc nội mạc tử cung buồng trứng gặp chủ yếu ở độ tuổi sinh sản, triệu chứng thường gặp là đau bụng kinh và đau bụng vùng chậu. Phẫu thuật nội soi u lạc nội mạc tử cung buồng trứng mang lại hiệu quả tốt.
Nghiên cứu mối liên quan giữa vị trí tổn thương, mức độ dính và giai đoạn lạc nội mạc tử cung với triệu chứng đau vùng chậu ở bệnh nhân lạc nội mạc tử cung điều trị tại Bệnh viện Đà Nẵng
Tạp chí Phụ Sản - Tập 11 Số 3 - Trang 64 - 69 - 2013
Mục tiêu: nghiên cứu mối liên quan giữa đặc điểm tổn thương, mức độ dính và giai đoạn lạc nội mạc tử cung với triệu chứng đau vùng chậu ở bệnh nhân lạc nội mạc tử cung. Đối tượng và phương pháp: Nghiên cứu mô tả cắt ngang gồm 150 bệnh nhân lạc nội mạc tử cung được điều trị bằng phẫu thuật tại Khoa Phụ Sản, Bệnh viện Đà Nẵng từ 12/2006-12/2009. Kết quả: Thống kinh là triệu chứng chiếm tỉ lệ cao nhất: 72,0%. Tỉ lệ lạc nội mạc tử cung giai đoạn I, II, III và IV trong nhóm nghiên cứu lần lượt là 14,7% (điểm TB: 4,6 ± 0,5), 25,3% (điểm TB: 12,1 ± 3,7), 27,3% (điểm TB: 34,9 ± 8,0) và 32,7% (điểm TB: 75,0 ± 15,1). Có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê của triệu chứng thống kinh với vị trí tổn thương. Các bệnh nhân có tổn thương ở cả buồng trứng, phúc mạc và túi cùng sau bị bít hoàn toàn có triệu chứng thống kinh cao hơn so với các vị trí khác (p
Nghiên cứu đặc điểm u lạc nội mạc tử cung buồng trứng ở các trường hợp vô sinh
Tạp chí Phụ Sản - Tập 18 Số 4 - Trang 41-47 - 2021
Mục tiêu: khảo sát một số đặc điểm lâm sàng, cận lâm sàng ở những bệnh nhân vô sinh có u lạc nội mạc tử cung (LNMTC) buồng trứng. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: mô tả cắt ngang bệnh nhân có u LNMTC đang điều trị vô sinh tại Trung tâm nội tiết sinh sản và Vô sinh, bệnh viện trường Đại Học Y Dược Huế trong khoảng thời gian từ 4/2019 đến tháng 6/2020. Kết quả: Qua nghiên cứu gồm 101 trường hợp lạc nội mạc tử cung, ghi nhận độ tuổi trung bình là 36,53 ± 5,86 tuổi, BMI trung bình là 19,75 ± 1,6 kg/m2. Vô sinh nguyên phát chiếm 76,23%. Thời gian vô sinh trung bình là 4,18 ± 2,69 năm. Đau bụng kinh chiếm 73%. Khám thấy phần phụ có khối u chiếm 75,24%. Prolactin trung bình: 388,26 ± 249,15 μUI/ml, AMH trung bình 4,03 ± 3,73 ng/ml, CA-125 trung bình: 56,78 ± 33,01 UI/ml. Siêu âm buồng trứng: 61,38% có u LNMTC ở buồng trứng (T). 30,69% bệnh nhân có kèm LNMTC trong cơ tử cung. Kết luận: Bệnh nhân vô sinh có u lạc nội mạc tử cung tại buồng trứng có một số điểm khác biệt so với những bệnh nhân vô sinh khác. Việc nhận diện các yếu tố liên quan giúp góp phần điều chỉnh cách thức can thiệp trong điều trị vô sinh.
#U lạc nội mạc tử cung #vô sinh
Kết quả điều trị u lạc nội mạc tử cung tái phát tại Khoa Phụ Sản Bệnh viện Trung ương Huế
Tạp chí Phụ Sản - Tập 14 Số 2 - Trang 62-66 - 2016
U lạc nội mạc tử cung (LNMTC) tái phát từ lâu đã được xem là một thách thức trong thực hành lâm sàng. Việc điều trị triệt để u lạc nội mạc vẫn còn gặp nhiều khó khăn. Điều trị nội khoa và ngoại khoa bảo tồn chỉ tạo ra một sự thuyên giảm tạm thời nhưng không thể loại trừ tất cả các tổn thương vi thể, tổn thương sau phúc mạc. Nghiên cứu được thực hiện trên 46 bệnh nhân được chẩn đoán u lạc nội mạc tử cung tái phát tại Khoa Phụ sản Bệnh viện Trung ương Huế từ tháng 01/2011 đến tháng 08/2013 với mục tiêu đánh giá kết quả điều trị của u lạc nội mạc tử cung tái phát. Kết quả cho thấy có sự cải thiện về cường độ đau của các triệu chứng thống kinh, đau vùng chậu không theo kỳ kinh, giao hợp đau và đại tiện khó trước và sau điều trị. Chất lượng sống, chỉ số hài lòng tình dục tổng thể có sự cải thiện rõ sau điều trị. Tỷ lệ có thai vào thời điểm 3 tháng sau khi kết thúc điều trị là 20,0%.
Nghiên cứu đặc điểm lâm sàng, cận lâm sàng của u lạc nội mạc tử cung tái phát
Tạp chí Phụ Sản - Tập 12 Số 3 - Trang 32-35 - 2014
Nghiên cứu được thực hiện trên 46 bệnh nhân được chẩn đoán u lạc nội mạc tử cung tái phát tại Khoa Phụ sản Bệnh viên Trung ương Huế từ tháng 01/2011 đến tháng 08/2013 với mục tiêu nghiên cứu đặc điểm lâm sàng và cận lâm sàng của u lạc nội mạc tử cung tái phát. Kết quả cho thấy: Thống kinh chiếm tỉ lệ cao nhất: 89,1%, tỉ lệ vô sinh là 26,1%, triệu chứng thực thể hay gặp nhất là tử cung dính (60,9%), độ III - IV theo AFS chiếm tỷ lệ cao (37,0% và 34,8%) và có mối tương quan giữa thống kinh và đau vùng chậu không theo chu kỳ với mức độ dính (p < 0,05). về đặc điêm cận lâm sàng ghi nhận nồng độ CA - 125 tăng ở giai đoạn tiến triển và tỉ lệ u lạc nội mạc tử cung bên trái (63,1%) cao hơn bên phải (36,9%) trên siêu âm (p < 0,05).
#u lạc nội mạc tử cung tái phát
Tổng số: 36   
  • 1
  • 2
  • 3
  • 4